Tòa án nhân dân tối cao trả lời 04 câu hỏi về hôn nhân khi xét xử (Ảnh Internet)
Về vấn đề này, LUẬT HOA NHÚT trả lời như sau:
Ngày 03/10/2023, Tòa án nhân dân tối cao có công văn 196/TANDTC-PC thông báo kết quả giải đáp trực tuyến các vướng mắc trong công tác xét xử.
Tòa án nhân dân tối cao trả lời 04 câu hỏi về hôn nhân trong công tác xét xử
Theo đó, 04 vướng mắc liên quan đến hôn nhân trong công tác xét xử đã được TAND tối cao trả lời như sau:
Vấn đề 1: Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và khoản 3 Điều 6 Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN thì “Chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là người đứng tên trên thẻ tiết kiệm” tên trên thẻ tiết kiệm (sổ tiết kiệm) có toàn quyền quyết định số tiền trên thẻ tiết kiệm đứng tên mình. Trường hợp số tiền tiết kiệm là tài sản chung của vợ chồng, vợ hoặc chồng thế chấp thẻ tiết kiệm đứng tên chủ thẻ tiết kiệm để vay tiền Ngân hàng mà người không đứng tên không biết thì hợp đồng thế chấp sổ tiết kiệm này có hiệu quả hay không? |
Trả lời:
Khoản 1 Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“Trong giao dịch với bên thứ ba ngay tình, vợ hoặc chồng đứng tên trên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản đó.”
Điều 8 Nghị định 126/2014/ND-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định:
“Người thứ ba xác lập, thực hiện các giao dịch với vợ hoặc chồng liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán hoặc động sản khác mà không phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật thì bị coi là không đủ điều kiện. trung thực trong các trường hợp sau:
1. Vợ, chồng đã cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 16 Nghị định 126/2014/ND-CP nhưng vẫn xác lập, thực hiện giao dịch trái với thông tin đó;
2. Vợ chồng đã thỏa thuận công khai theo quy định của pháp luật có liên quan về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản mà người thứ ba biết hoặc phải biết mà vẫn xác lập, thực hiện giao dịch trái với thỏa thuận. thỏa thuận giữa vợ chồng”.
Căn cứ quy định trên, trường hợp vợ hoặc chồng đứng tên chủ tài khoản tiền gửi tại ngân hàng (tên chủ thẻ hoặc chủ sổ tiết kiệm) được coi là người có quyền xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan. đối với tài sản đó thì hợp đồng thế chấp sổ tiết kiệm có giá trị pháp lý, trừ trường hợp giao dịch với bên thứ ba không trung thực theo quy định tại Điều 8 Nghị định 126/2014/ND-CP nêu trên.
Hậu quả 2: Vợ hoặc chồng là người nước ngoài, kết hôn ở nước ngoài, có thẻ tạm trú tại Việt Nam (thời hạn thẻ tạm trú dưới 02 năm). Trong thời gian tạm trú, hai vợ chồng đã có đơn gửi Tòa án Việt Nam công nhận thuận tình ly hôn. Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ việc này không? |
Trả lời:
Khoản 1 Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với người thường trú tại Việt Nam được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của Luật này.”
Khoản 9, khoản 13, khoản 14 Điều 3 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam 2014 quy định:
“9. Cư trú là việc người nước ngoài thường trú hoặc tạm trú tại Việt Nam…
13. Thẻ tạm trú là loại giấy tờ do cơ quan quản lý xuất nhập cảnh hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ Ngoại giao cấp cho người nước ngoài được phép cư trú có thời hạn tại Việt Nam và có giá trị thay cho thị thực.
14. Thẻ thường trú là loại giấy tờ do cơ quan quản lý xuất nhập cảnh cấp cho người nước ngoài được phép cư trú vô thời hạn tại Việt Nam và có giá trị thay cho thị thực.
Điểm d Khoản 1 Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “Các vụ việc ly hôn mà nguyên đơn, bị đơn là công dân Việt Nam hoặc các đương sự là người nước ngoài cư trú, kinh doanh, sinh sống lâu dài”. tại Việt Nam” là vụ việc Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài.
Trong trường hợp này, vợ chồng là người nước ngoài chưa được cấp thẻ thường trú tại Việt Nam. Căn cứ vào các quy định trên, yêu cầu công nhận ly hôn không tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Tòa án Việt Nam.
Vấn đề 3: Trong trường hợp bất động sản là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một bên tham gia khi ký hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng (mua bán), thế chấp… thì bên kia không ký hoặc không đồng ý với hợp đồng đó; Hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng (mua bán), thế chấp không vi phạm các điều kiện hợp lệ khác. Hợp đồng vô hiệu toàn bộ hay một phần? |
Theo Điều 130 Bộ luật Dân sự 2015 thì “Giao dịch dân sự vô hiệu một phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch”.
Khoản 1 và khoản 2 Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“1. Tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung có thể phân chia được.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo dựng, phát triển tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
Khoản 1 Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“Vợ chồng bình đẳng về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không có sự phân biệt giữa lao động gia đình và lao động được trả lương.”
Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thoả thuận.
2. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thoả thuận bằng văn bản của vợ chồng trong các trường hợp sau đây:
a) Bất động sản;
…”.
Theo quy định trên, việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng là bất động sản phải được hai vợ chồng đồng ý hoặc phải có văn bản thỏa thuận giữa vợ và chồng. Vì vậy, trong trường hợp vợ chồng không có thỏa thuận về việc định đoạt tài sản chung hoặc không có văn bản thỏa thuận phân chia tài sản; Chỉ có một bên vợ, chồng tham gia ký hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng, thế chấp… bên kia không tham gia ký hoặc không đồng ý thì hợp đồng hoàn toàn vô hiệu.
Tuy nhiên, trong trường hợp bất động sản là tài sản chung của vợ chồng thì chỉ có một người ký hợp đồng chuyển nhượng bất động sản cho người khác, còn người kia không ký hợp đồng; Nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận thì người không ký hợp đồng biết và sử dụng số tiền chuyển nhượng bất động sản; Bên nhận chuyển nhượng bất động sản đã nhận, quản lý, sử dụng bất động sản đó một cách công khai; Nếu người không ký hợp đồng biết nhưng không phản đối thì phải xác định người đó đồng ý với việc chuyển nhượng bất động sản (theo Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng). Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao).
Vấn đề 4: Khi bà M sinh ra, mẹ bà là Nguyễn Thị M. Sau khi bố bà M là ông Lê Văn N qua đời, bà Nguyễn Thị M có đơn yêu cầu xác định ông Lê Văn N là bà Bố của M. Vậy yêu cầu này có thuộc thẩm quyền của Tòa án không? |
Trả lời:
Khoản 2 Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người yêu cầu xác định cha, mẹ, con đã chết và trong các trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.”
Khoản 10 Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “Yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình” là yêu cầu kết hôn. và gia đình thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án.
Như vậy, theo quy định trên, yêu cầu Tòa án xác nhận quan hệ cha con của con bà M thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm: sesua.vn là website tổng hợp kiến thức từ nhiều nguồn,Vui lòng gửi email cho chúng tôi nếu có bất cứ vi phạm bản quyền nào! Xin cám ơn!