Quốc hội chính thức thông qua dự án Luật Căn cước công dân (Ảnh internet)
Tên gọi của Luật Căn cước công dân và thẻ Căn cước công dân phù hợp với mục đích quản lý và phục vụ nhân dân.
Trước đó, trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, an ninh (UBQG) Lê Tấn Tới cho biết, liên quan đến tên dự thảo Luật và tên gọi CMND, có ý kiến cho rằng, thời gian qua có nhiều thay đổi về hình thức, nội dung, tên gọi CMND nên đề nghị xem xét tên gọi của Luật; không đổi tên Luật và tên gọi CMND thành CMND.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Qua thảo luận tại Kỳ họp thứ 6 và phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giữa 2 kỳ họp, Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV, đa số ý kiến của đại biểu Quốc hội thống nhất với tên dự án Luật và tên gọi thẻ Căn cước công dân như đã nêu tại Tờ trình số 666 ngày 24 tháng 10 năm 2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Căn cước công dân.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, việc sử dụng tên Luật Căn cước công dân thể hiện rõ bản chất khoa học của Luật, vừa bao quát phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Luật, vừa phù hợp với xu thế quản lý xã hội số. Với việc tích hợp thông tin khoa học vào thẻ căn cước công dân, cùng với hình thức, phương thức quản lý số đảm bảo đại trà, việc đổi tên thành thẻ căn cước công dân sẽ giúp công tác quản lý nhà nước khoa học hơn, phục vụ công cuộc chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số của Chính phủ; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ người dân tham gia các hoạt động xã hội, giao dịch hành chính, dân sự ngày càng thuận tiện.
“Từ những vấn đề nêu trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng việc sử dụng tên Luật Căn cước công dân là phù hợp với mục đích quản lý, phục vụ nhân dân. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trân trọng đề nghị Quốc hội giữ nguyên tên Luật Căn cước công dân”, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh giải thích.
Thu thập mống mắt làm cơ sở để kiểm tra và xác thực thông tin của từng cá nhân
Về Trung tâm dữ liệu quốc gia (quy định tại Khoản 4 Điều 8, Khoản 5 Điều 10, Khoản 5 Điều 11 và Khoản 3 Điều 12), có ý kiến cho rằng dự thảo Luật chưa xác định được vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm dữ liệu quốc gia nên quy định về kết nối cơ sở dữ liệu là chưa phù hợp. Đề nghị bổ sung quy định cụ thể khi Luật đã phân công nhiệm vụ.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội và báo cáo thêm như sau: Sau khi được các cấp có thẩm quyền chấp thuận, Chính phủ đã chỉ đạo hoàn thành Đề án và ban hành Nghị quyết số 175 ngày 30 tháng 10 năm 2023 phê duyệt Đề án xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia. Dự thảo Luật chỉ quy định Trung tâm dữ liệu quốc gia theo nghĩa là hệ thống kỹ thuật kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để chia sẻ, khai thác, xử lý thông tin theo chủ trương của Đảng và Đề án của Chính phủ.
Trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo bổ sung khoản 19 Điều 3 quy định về Trung tâm dữ liệu quốc gia như trong dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua.
Về việc thu thập, cập nhật, kết nối, chia sẻ, khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu về căn cước công dân (Điều 16), có đề xuất bổ sung quy định về thu thập thông tin sinh trắc học về mống mắt vào Điểm d Khoản 1 tương tự như thu thập thông tin sinh trắc học về ADN, giọng nói để đảm bảo tính khả thi và phù hợp với điều kiện triển khai thực tế.
“Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Khoa học hiện nay đã chứng minh, ngoài vân tay, mống mắt của mỗi người có cấu trúc hoa văn phức tạp và riêng biệt, không thay đổi nhiều theo thời gian. Do đó, ngoài việc thu thập vân tay, dự thảo Luật đã bổ sung quy định về thu thập mống mắt trong thông tin định danh để làm căn cứ kiểm tra, xác minh thông tin của từng cá nhân; hỗ trợ trong trường hợp không thu thập được vân tay của một cá nhân. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội giữ nguyên nội dung này như trong dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua”, Chủ nhiệm Ủy ban Thường vụ Quốc hội Lê Tấn Tới cho biết.
Việc mở rộng phạm vi cấp giấy chứng nhận căn cước sẽ có tác động phức tạp đến an ninh, trật tự. Về giấy chứng nhận căn cước và quản lý người Việt Nam chưa xác định được quốc tịch được cấp giấy chứng nhận căn cước (Điều 30), có đề xuất nghiên cứu việc cấp giấy chứng nhận căn cước cho tất cả những người không quốc tịch đang cư trú tại Việt Nam.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, trên thực tế, ở Việt Nam có rất nhiều người có quốc tịch nước ngoài nhưng cố tình che giấu hoặc vứt bỏ giấy tờ quốc tịch để ở lại Việt Nam bất hợp pháp. Nếu mở rộng đối tượng được cấp giấy chứng nhận căn cước, có thể sẽ có nhiều đối tượng là người không quốc tịch di cư về Việt Nam sinh sống, điều này sẽ tác động phức tạp đến tình hình an ninh, trật tự ở nước ta. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề xuất không mở rộng đối tượng được cấp giấy chứng nhận căn cước cho tất cả những người không quốc tịch.
Thẻ căn cước có tính bảo mật cao, không ai có thể truy cập để lấy thông tin trong thẻ
Về vấn đề cấp phát và quản lý thẻ căn cước điện tử (Chương IV), có ý kiến nhất trí về sự cần thiết phải có quy định về thẻ căn cước điện tử trong dự thảo Luật. Có ý kiến đề nghị báo cáo bổ sung về vấn đề bảo mật của thẻ căn cước gắn chip vì dễ bị xâm nhập, theo dõi.
Tuy nhiên, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thẻ căn cước công dân hiện nay được sản xuất theo công nghệ tiên tiến, có khả năng bảo mật cao, đảm bảo chống làm giả thẻ. Chip điện tử trên thẻ căn cước công dân có công nghệ xác thực thông qua nhận dạng vân tay hoặc khuôn mặt để xác thực chính xác chủ thẻ. Theo đó, khi một người sử dụng thiết bị để đọc thông tin được lưu trữ trong chip điện tử, người đó phải được sự đồng ý của chủ thẻ thông qua nhận dạng vân tay hoặc khuôn mặt để được truy cập vào ứng dụng để đọc và lấy dữ liệu. Nếu không có thao tác này, không ai có thể truy cập để lấy thông tin trong thẻ căn cước công dân.
“Ngoài ra, để khai thác thông tin trong chip điện tử phải sử dụng thiết bị chuyên dụng và các thiết bị này phải được Bộ Công an cung cấp mã bảo mật để xác thực, đảm bảo an ninh, bí mật thông tin. Trong trường hợp các cơ quan nhà nước khác cung cấp thiết bị chuyên dụng để đọc thông tin trên thẻ căn cước công dân thì các thiết bị này phải được các cơ quan chuyên môn của Bộ Công an kiểm tra và cung cấp mã bảo mật”, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh nhấn mạnh.
Về quy định chuyển tiếp (Điều 46), một số ý kiến cho rằng quy định tại khoản 1 Điều 46 của dự thảo Luật về thời hạn hiệu lực của thẻ căn cước công dân là phù hợp. Tuy nhiên, đề xuất nghiên cứu trường hợp thẻ căn cước công dân hết hiệu lực sau ngày Quốc hội thông qua Luật, cho phép tiếp tục sử dụng đến hết năm 2024, tránh gây phiền hà cho người dân khi phải đổi nhiều lần từ thẻ căn cước công dân sang thẻ căn cước công dân khi luật này có hiệu lực.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo sửa đổi, bổ sung quy định chuyển tiếp về thẻ căn cước công dân, giấy chứng minh nhân dân tại khoản 3 Điều 46 như sau: “Thẻ căn cước công dân, giấy chứng minh nhân dân hết hạn từ ngày 15 tháng 01 năm 2024 đến trước ngày 30 tháng 6 năm 2024 thì tiếp tục có giá trị sử dụng đến ngày 30 tháng 6 năm 2024”. Theo đó, khoản 2 Điều 45 về ngày có hiệu lực được bổ sung như sau: “Quy định tại khoản 3 Điều 46 của Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 01 năm 2024”; đồng thời sửa đổi một số nội dung tại Điều 45 và Điều 46 bảo đảm tính cụ thể, rõ ràng, phù hợp với thực tế.
Theo Cổng thông tin điện tử của Bộ Công an
Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm: sesua.vn là website tổng hợp kiến thức từ nhiều nguồn,Vui lòng gửi email cho chúng tôi nếu có bất cứ vi phạm bản quyền nào! Xin cám ơn!